Giới thiệu về lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng 22/11/2023

 

1. Quá trình ra đời và tồn tại

Cho đến nay, vẫn chưa thể xác định được nguồn gốc hình thành và phát triển của lễ hội Oc om bóc gắn với việc đua ghe Ngo của người Khmer, nhưng trong dân gian hiện lưu truyền rất nhiều truyền thuyết liên quan đến lễ hội này. Đây là những cứ liệu quan trọng làm cơ sở cho việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu. 

Trong suy nghĩ của người Khmer, mặt Trăng được xem là vị thần của đất và nước, chúa tể của mùa màng, có chức năng điều phối sự vận hành của thời tiết, mùa vụ. Việc thờ Mặt Trăng, Mặt Trời là hình thức tín ngưỡng đã có từ lâu đời không chỉ ở người Khmer mà nó có mặt khắp các cư dân làm nông nghiệp lúa nước. Tuy nhiên, vì là dân tộc theo đạo Phật, nên trong cách ứng xử, bày tỏ lòng tri ân của mình đối với thần linh, nhất là thần Mặt Trăng, người Khmer có nhiều cách thể hiện không giống các dân tộc khác có chung niềm tin thờ Mặt Trời, Mặt Trăng. Người Khmer cho rằng, trong cuộc sống, con người luôn gây ra tội lỗi, xúc phạm đến đất và nước. Vì sự sinh tồn, vì lòng tham lam vị kỷ, con người thường xuyên làm vẩn đục, uế tạp nước và đất, có nghĩa con người đã xúc phạm tới thần linh (Mặt Trăng, Mặt Trời). Do vậy, hàng năm người Khmer phải làm lễ để chuộc tội và tạ ơn đối với thần. Và, lễ hội Cúng Trăng- Oc om bóc, Thả hoa đăng, Thả đèn trời, đua ghe Ngo chính là hình thức mà người Khmer muốn bày tỏ lòng tri ân của mình đối với Thần Nước, Thần Đất, cầu xin sự “tha thứ” của Thần về những hành động của con người đã làm tổn hại đến đất, nước, đến môi trường xung quanh.

- Về sự ra đời của lễ hội Oc om bóc, dựa vào các câu chuyện trong kinh điển Phật giáo và truyện cổ tích Khmer, người ta lý giải rằng, lễ hội cúng trăng ra đời từ một câu chuyện nói về tiền kiếp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là vào một đêm rằm trăng tròn, có một con thỏ phát nguyện tâm thiện muốn hiến thể xác của mình cho bất kỳ ai cần đến, để sớm được hóa kiếp khác. Lời nguyện đó ngay lập tức được vị thần Pres-anh đang ngự ở tầng trời nghe được. Ngài liền hạ giới, biến mình thành một cụ già, lom khom đến gần Thỏ xin được ăn thịt. Thỏ liền nhảy vào đống lửa tự thiêu mình, biến thành thức ăn cho cụ già (thần Pres-anh). Thế nhưng, khi đó ngọn lửa không những không thiêu chết Thỏ mà còn phải tắt đi. Xúc động trước việc làm thiện tính đó, thần Pres-anh bồng lấy Thỏ, bay một mạch lên cung trăng và dùng phép màu vẽ hình Thỏ in vào Mặt Trăng mãi mãi về sau này để con người thấy mà noi gương. Và, cũng từ đó lễ hội cúng trăng ra đời.

- Về hội đua ghe Ngo, có 3 truyền thuyết phổ biến nhất, đó là: 

Thứ nhất, ngày xưa có công chúa Neng Chanh (Nàng Chanh) có tài sắc vẹn toàn được nhà vua rất yêu chuộng. Từ lòng ganh ghét ti tiện nên một tên quan đại thần đã vu cho nàng tội bỏ chất cáu bẩn ở móng tay vào nồi canh của vua. Biết mình không còn cách nào minh oan, Neng Chanh vội vã xuống thuyền xuôi theo sông Ba Sắc chạy trốn. Nhà vua cho quân lính đuổi theo hạ sát nàng. Biết không thể thoát thân, định mạng đã đến, nên Neng Chanh vội vã ném chiếc ống nhổ (người Khmer gọi là Kon thô) là kỷ vật được Nhà vua ban tặng trước đó xuống vàm sông và nơi đó sau này người Khmer gọi là “Peam Kon thô” (Peam là vàm, Kon Thô là ống nhổ; người Việt gọi vàm Ống Nhổ - nay gọi vàm Dù Tho) và kết cục nàng bị vua xử trảm một cách thương tâm. Từ truyền thuyết đó, nên trong dân gian Khmer tương truyền: để tưởng nhớ Neng Chanh tài hoa bạc mệnh, hàng năm cư dân Khmer quanh vùng tổ chức đua ghe Ngo để diễn lại cảnh Neng Chanh chạy trốn khỏi hoàng cung đến vùng đất Ba sắc - nay là Sóc Trăng.

Thứ hai, tục đua ghe Ngo theo dân gian tương truyền thì xuất phát từ đặc điểm cuộc sống của cộng đồng cư dân lúc bấy giờ ở vùng sông nước cho nên khởi đầu họ đã làm nên chiếc ghe độc mộc dùng để làm phương tiện đi lại, đồng thời chiếc ghe Ngo cũng là vật linh thiên dùng ghe Ngo để đưa nước từ ruộng đồng ra biển cả, đánh dấu sự kết thúc của một năm đồng áng. Những cuộc mưu sinh để chống chọi với thiên nhiên và đàn thú dữ thường được tổ chức đi thành từng đoàn, do đó chiếc ghe độc mộc lúc bấy giờ có phần bất tiện, không khả năng đáp ứng được sức tải nhiều người theo yêu cầu, nên họ phải sáng kiến đóng chiếc ghe dài ra để chở được nhiều người, phục vụ cho cuộc sống mưu sinh của cộng đồng.

Thứ ba, có thuyền thuyết cho rằng tục đua ghe Ngo của đồng bào Khmer là nhằm ôn lại kỳ tích của lực lượng chủ lực hải quân và chiếc thuyền chiến (ghe Ngo). Theo tài liệu được viết gần đây bằng tiếng Khmer, về “Nguồn gốc lễ hội đua ghe Ngo, thả đèn nước và cúng trăng” của nhà sư Thạch Sô Tưm xuất bản năm 2009 cũng đáng ngẫm nghĩ về lịch sử của lễ hội truyền thống này. Trong đó đã nêu về nguồn gốc của lễ hội đua ghe Ngo ở Sóc Trăng rằng: Hội đua ghe Ngo đã có từ lâu và trở thành một tập tục của những cư dân ở xứ sở Ba Sắc xưa (nay là Sóc Trăng) vào khoảng năm 2071 tính theo Phật lịch và năm 1528 tính theo Dương lịch, tương ứng với thời đại Nhà vua Ăng Chanh thứ nhất, vương triều Long wêk của Campuchia.

Theo tương truyền, tục đua ghe Ngo của người Khmer Sóc Trăng lần đầu tiên được tổ chức tại “Pem Kon Thô” tức là Vàm Dù Tho ngày nay thuộc địa bàn huyện Mỹ  Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Nơi này các đội ghe Ngo của các vùng Bạc Liêu, Kiên Giang, Trà Vinh tập trung về đây đều thuận lợi, ở đây có 1 con sông lớn thẳng dài, dòng nước chảy đều, có sân bãi lộ thiên và cũng là nơi ngã ba đường tiếp giáp nhau thành nơi giao thương sầm uất lúc bấy giờ.

Đến thời Pháp thuộc, chúng bắt buộc phải dời điểm đua về sông Om pu gie tức là sông Nhu Gia ngày nay thuộc xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng để dễ bề chúng kiểm soát an ninh. Đến thời kỳ Mỹ ngụy cuộc đua cũng tổ chức tại sông Nhu Gia, thỉnh thoảng (năm 1972 - 1974) tập trung tổ chức tại Kinh Sáng thuộc thành phố Sóc Trăng ngày nay. Sau ngày miền Nam giải phóng cuộc đua ghe Ngo lại được tổ chức tại sông Nhu Gia cho đến khoảng đầu thập niên 80, để tổ chức cuộc đua ghe Ngo truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer ngày càng chu đáo, phát huy giá trị văn hóa và tính chất quần chúng hóa lễ hội nên cuộc đua chính thức được dời về tổ chức tại Kinh Sáng hay còn gọi là sông Xung Đinh, thời Pháp gọi là sông Maspéro (thành phố Sóc Trăng) thuộc trung tâm tỉnh lỵ Sóc Trăng cho đến ngày nay. 

Từ năm 2013, lễ hội được tổ chức với quy mô lớn hơn mọi năm khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép Sóc Trăng đứng ra tổ chức “Festival Đua ghe Ngo đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long - tỉnh Sóc Trăng lần thứ nhất năm 2013”. Từ đó cho đến nay (2020), hàng năm, cuộc đua tổ chức ngày càng quy mô, thể hiện rõ tính chất quần chúng hóa lễ hội theo hướng nét đẹp văn minh, đoàn kết, an toàn vì mục tiêu nâng cao mức hưởng thụ về đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào dân tộc nói riêng và nhân dân trong tỉnh, trong khu vực nói chung.

2. Hình thức biểu hiện

Lễ hội đua ghe Ngo của người dân Khmer tỉnh Sóc Trăng thể hiện dưới 2 hình thức, đó là những nghi thức tế lễ ở gia đình hoặc ở chùa và hội đua ghe Ngo diễn ra trên sông Maspéro, khóm 5, phường 8, thành phố Sóc Trăng.

3. Qui trình thực hành

- Ghe Ngo và lễ hạ thủy

+ Ghe Ngo

"Tuk Ngô" (ghe Ngo) có kết cấu khởi thủy là thuyền độc mộc, làm bằng cây sao. Thuở xưa rừng châu thổ sông Mêkông ngút ngàn gỗ quý. Tuy nhiên, để tìm được một thân cây sao bằng hai người ôm thì không phải là chuyện dễ. Người ta phải tổ chức cho một nhóm người vào rừng tìm cây thích hợp bất chấp thú dữ, rắn rít. Khi tìm được cây đúng tiêu chuẩn thì người ta phải làm lễ cúng thần giữ rừng (Neak ta Prey ph'nôm) để được bình an vô sự rồi mới đốn cây. Họ phải dùng sức trâu hoặc voi kéo cây xuống sông, kết thành bè rồi thả theo dòng nước. Cây sao đem về phải cưa, đục, đẽo, khoét thành chiếc ghe độc mộc. Sau này ghe được cải tiến nối thêm đầu và đuôi đều cong người Khmer gọi là Tuk Ngô (Tuk là ghe, Cong là ngô - đọc trại thành Ngo).

Theo nguyên tắc, chiếc ghe Ngo dài 27 mét, hình tựa con rắn, mình thon thon, thoai thoải về phía trước, đầu uốn cong và hơi thấp hơn sau lái lái một chút. Ghe Ngo có nhiều khoang, trên mỗi khoang đóng nhiều thanh cây ngang dài 1,2m làm băng ngồi vừa đủ 2 người ngồi bơi thoải mái theo từng cặp song song gồm 24 đôi. Ghe Ngo có dầm riêng, làm theo nhiều kích cỡ tùy theo từng vị trí người bơi. Đặc biệt, nghe Ngo có hai cây kềm chịu lực, thường là thân cây tràm vì cây này có độ dẻo, hai cây kềm chịu lực này giúp cho ghe nhún nhảy và phóng nhanh đồng thời giúp giữ chặt ghe không bị gãy đôi. Hai cây này có đường kính 0,2m. Một cây kềm dài suốt lòng ghe, một cây kềm lái (từ giữa thân thân ghe về phía sau) gọi là Đon Sonh-Tuôch (cây cần câu).

Thân ghe được chà đi chà lại cho thật trơn bóng và sơn màu đen. Trên be sơn một lằn trắng hoặc vàng tùy ý thích của sư cả trụ trì. Hai bên be vẽ hình các con vật, như Rồng, Cọp, Hổ… hay hoa lá cách điệu. Ở hai bên mũi ghe vẽ hình biểu tượng của ghe và ghi tên chùa. Khi xây chùa, người ta chọn một con vật làm biểu tượng và khi đóng ghe, con vật này cũng là biểu tượng của chiếc ghe.
Ngày nay, những thân cây sao bằng 2 người ôm hầu như không còn nữa nên ghe Ngo hiện đại được đóng bằng ván cây sao. Có lẽ do kết cấu của ghe ngày nay mỏng và nhẹ hơn ghe truyền thống nên nhiều người nhận định rằng ghe ngày nay lướt nhanh hơn ghe độc mộc ngày xưa.

Ghe Ngo bao giờ cũng được bảo quản trong một mái nhà để ghe dựng trong khuôn viên chùa. Mái che, dàn đà cao chắc chắn để che mưa nắng, phòng mối mọt. Nhà ghe là nơi thiêng liêng, ngày xưa phụ nữ không được đến gần, đây là điều cấm kỵ.

Trước đây, người ngồi mũi (nhân vật số 1 của đội bơi) phải là người khá giả, có uy tín trong phum sróc. Được bình chọn ngồi mũi, người ấy phải lo lễ cúng, lo nuôi "con dầm" ăn, tập dợt, lo chi phí cho cuộc đua. Ngày nay nhiều sróc vẫn còn giữ lệ này.

Sau người ngồi mũi là những cặp ngồi trên băng ghế. Cặp ngồi kế mũi là "s'ma tưm". Cặp này phải có kỹ thuật bơi thật nhanh (theo đúng nhịp cồng hoặc còi), làm chuẩn mực cho người ngồi phía sau. Kế tiếp là "kôn Chro va" gồm 6 người ngồi bơi. Tiếp theo là "Kô lich" gồm 28 người quỳ bơi, khi ghe bơi gần đến đích, 28 người này nhất tề đứng lên, một chân làm trụ, một chân dùng hết sức cánh tay đẩy ghe phóng nhanh, lao thẳng về đích. 8 người nhún bơi gọi là "sroong dôn". Sau cùng là 3 tay lái. Lái chính đứng sau cùng, 2 lái phụ đứng trước ở 2 bên phải trái.

Vì chiếc ghe Ngo được tạo dáng như con rắn dài, đầu và lái đều cong. Khi bơi, nếu động tác phối hợp không nhịp nhàng, ghe dễ bị mất thằng bằng và lật chìm. Vì thế, các tay bơi phải ra sức tập cho thuần thục. Người được chọn bơi phải là trai tráng khoẻ mạnh, được tập dợt theo từng vị trí của mình. Trước hết là tập bơi trên cạn: tất cả tay dầm, đứng theo vị trí của mình tại điểm tập bơi (thường là trước sân chùa). Tập theo tiếng còi của huấn luyện viên cho thật đều và thật nhịp nhàng. Kế đó là tập bơi trên dàn gỗ dưới ao hay là trên sông gần chùa nhằm luyện sức cánh tay và sức bền thể lực. Sau cùng là tập bơi trên ghe Ngo để hoàn chỉnh cuộc tập dợt. Khổ luyện sức, kỳ công luyện kỹ thuật, luyện cho tất cả nhập sức làm một nhịp chèo, đua ghe bay về đích.

+ Lễ hạ thủy ghe Ngo 

Từ ý niệm "vạn vật hữu linh", người Khmer tin rằng ghe Ngo cũng là vật thiêng liêng. Nhất cử nhất động với ghe Ngo đều phải làm lễ cầu xin. Trong mỗi lễ đều có tiết lễ chi li. Như lễ "xuống ghe" (hạ thuỷ) trước mỗi kỳ đua. Với niềm tin kêu gọi thần linh (prey) đến trợ giúp đội ghe đi bơi thắng lợi, người ta tổ chức buổi lễ cúng kiếng với sự có mặt đông đủ của các vận động viên và đông đảo cổ động viên trong phum sróc. 

Ở Sóc Trăng, tùy theo điều kiện mỗi chùa mà lễ hạ thủy có những cách thức tiến hành khác nhau, nhưng tựu trung, sẽ diễn ra theo trình tự sau:

- Vào buổi sáng của lễ hạ thủy, người dân trong phum sróc tập trung về chùa cùng giúp nhau chuẩn bị lễ vật dâng cúng. Lễ vật gồm: 1 con heo quay, 1 con gà và 1 con vịt luộc, cháo cá, cơm, thức ăn, dừa khô bỏ vỏ, rượu, trái cây, hương đèn, 1 miếng vải đỏ... Các lễ vật này được bày cúng trên một chiếc bàn rộng trước mũi ghe Ngo.

- Khi các lễ vật đã sẵn sàng, vào lễ, thầy cúng thắp nhang, đèn. Tiếp đó nhạc ngũ âm nổi lên tấu khúc mời gọi thần linh với nội dung bài hát:

Khmau ơi srây Khmau (Khmau ơi nàng Khmau)

Neng môk pro-nhăp. (nàng hãy đến mau)

Neng môk ôi chhăp. (Nàng đến thật nhanh)

Chuôi chea kom-lăng. (Tiếp thêm sức mạnh)

Ô mă sâth thih sva hă! (câu thần chú).

Người Khmer cho rằng thần bảo vệ ghe Ngo là Neng Khmau (tên một vị nữ thần), cũng có nơi vị nữ thần này được gọi với tên là Neng Teo... 

- Nhạc vừa kết thúc, các vị sư sẽ đứng ở hai bên phần mũi ghe đọc kinh để cầu bình an, sự may mắn. Trong lúc đọc, thỉnh thoảng có một vị sư sẽ lấy nước vẩy vào mũi ghe với ý nghĩa nước là khởi nguồn sự sống, nước đem lại may mắn, vạn sự trôi chảy thuận lợi, mọi điều tốt lành, thịnh vượng. Nước còn biểu tượng cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Nước của Phật, Thánh dùng để tẩy uế bụi trần, gột rửa hết những gì không may mắn, đem lại sự sạch sẽ, phong quang, thơm tho. 

- Tiếp đến, thầy cúng liền bước tới quỳ lạy trước lễ vật mà khấn rằng: "Hôm nay là ngày lành tháng tốt, chúng tôi xin được hạ thủy ghe Ngo với các lễ vật này xin dâng cúng lên người. Xin người hãy chấp nhận và ăn uống thật no say rồi ban phước, giúp chúng tôi tăng thêm sức mạnh, chiến thắng mọi địch thủ đến từ 9 phương trời, 10 phương đất.

Thầy cúng lập lại như vậy đủ 3 lần rồi lấy dầu dừa thoa lên mũi ghe và chia cho các vận động viên thoa lên đầu. Sau đó các vận động viên cùng đưa tay lên thề thốt, nguyện đoàn kết một lòng giành thắng lợi.

- Tiếng trống, tiếng còi đồng loạt nổi lên và tất cả các vận động viên đứng hai bên ghe đồng loạt nhấc bổng chiếc ghe Ngo đi từ từ ra bờ sông rồi hạ xuống nước. Sau lễ cúng, miếng vải đỏ tượng trưng cho nữ thần neng Khmau được đặt lên mũi ghe trong suốt cuộc đua.

- Sau khi đã hạ thủy thành công, tiếng trống và tiếng vỗ tay chúc mừng của những người tham dự càng khiến cho các cổ động viên thêm phần hưng phấn. Họ lần lượt lên ghe theo vị trí đã được sắp xếp rồi đồng loạt vung tay chèo theo tiếng còi của huấn luyện viên. Chiếc ghe xé nước lao đi vun vút trong tiếng hò reo của những người theo dõi. 

Thông thường, lễ hạ thủy sẽ diễn ra trước cuộc đua chính thức trong khoảng một tuần. Vào thời gian đó, các vận động viên sẽ thường xuyên tập luyện trên ghe để đảm bảo sự dẻo dai, đều tay, bền bỉ. Đồng thời, để quan sát và điều chỉnh hai cây kềm trên ghe sao cho phóng đi một cách nhanh nhất.

- Khi phần thử ghe đã hoàn tất (cả đi và về trong khoảng hơn 1km), tất cả mọi người sẽ tề tựu về trước sân chùa, nghe những lời căn dặn, ủy lạo từ sư trụ trì, từ chính quyền địa phương và lời hứa của các vận động viên về quyết tâm chiến thắng. Buổi lễ kết thúc trong niềm hân hoan, tràn trề hi vọng của người dân trong phum sróc, họ tin đội của mình sẽ đạt giải cao nhất trong cuộc đua sắp tới.

- Diễn biến lễ hội đua ghe Ngo

+ Lễ cúng Trăng (Oc om bóc)

Còn gọi là Lễ cúng Trăng hay lễ "Đút cốm dẹp" (Bon sâm peah preah khe) là lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer. Lễ này diễn ra vào đêm trước hội đua ghe Ngo.

Việc tổ chức lễ cúng trăng thường vào đêm rằm tháng “Ka-đâk”, cũng là ngày cuối cùng của mùa hạ và là thời gian thu hoạch hoa màu đủ loại, trong đó có lúa nếp là sớm nhất. Và, để nhớ ơn Mặt Trăng, người ta lấy lúa nếp giả thành cốm dẹp với các hoa màu khác để cúng trăng. Đúng đêm rằm tháng “Ka-đâk” (tương ứng 15 tháng 10 âm lịch), trước khi trăng lên tới đỉnh đầu, từng gia đình người Khmer thường tề tựu trước sân nhà hoặc tập trung tại khuôn viên chùa, hay nhiều gia đình cùng mang lễ vật đến một nơi rộng rãi trong phum sróc, không có bóng cây che khuất để làm lễ cúng trăng. Trước hết người ta cắm hai cây trúc hoặc tre xuống đất để làm thành một cái cổng, rồi trang trí thêm hoa lá cho sinh động. Tại một số địa phương khác ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trên cổng người ta còn giăng một dây trầu gồm 12 lá trầu đã được cuốn tròn, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm, một dây cau gồm bảy trái được chẻ vỏ ra như cánh con ong, tượng trưng cho bảy ngày trong tuần. Hoặc, người ta cắt nhiều lá chuối, mỗi lá chuối trải ra có gắn 12 ngọn nến, khi cử hành nghi lễ, người ta thắp lên và sau đó lấy lá chuối ngửa lên Mặt Trăng để xem hình dạng các hình thù từ nến rơi xuống lá chuối mà đoán sự tốt lành, hay xấu trong năm tới. Dưới cổng người ta đặt một chiếc bàn, rồi bày các vật cúng gồm: nhang đèn, cốm dẹp và các hoa màu nông sản khác như dừa tươi, chuối, khoai lang, khoai mì, khoai môn đã luộc chín hoặc chế biến thành chè… 

+ Cốm dẹp: là lễ vật đặc biệt không thể thiếu, được chế biến từ lúa nếp, tượng trưng cho lòng hiếu thảo, tạ ơn hạt thóc đã nuôi sống con người.

+ Trái dừa: quả tròn giống như hình mặt trăng, vạt bỏ phần nhọn, thể hiện hương vị ngọt ngào, có nước, là sản phẩm quan trọng trong đời sống đồng bào dân tộc Khmer.

+ Cây mía: có hương vị ngọt, thẳng lóng. Thể hiện ý chí vươn lên mạnh mẽ.

+ Khoai mài và khoai lùn: hai món đặc thù tiêu biểu riêng cho đồng bào dân tộc Khmer và cũng là một trong những lễ vật không thể thiếu.

Sau đó, tất cả các thành viên trong gia đình ra ngồi trên một chiếc chiếu được trải trước bàn lễ vật, chắp tay trước ngực, quay mặt về Mặt Trăng để cử hành nghi lễ. Riêng tại các ngôi chùa thì bà con thỉnh các vị sư ngồi trước bàn lễ vật tụng kinh chúc phúc. Và đến khi Mặt Trăng lên cao tỏa sáng, người ta lại đốt nhang, nến, rót trà và mời một người lớn tuổi đứng ra làm chủ lễ (hoặc là các vị A-cha). Chủ lễ sẽ khấn vái, với nội dung chủ yếu bày tỏ lòng biết ơn của con người đối với Mặt Trăng, xin Mặt Trăng (cũng có nghĩa xin thần linh) tiếp nhận lễ vật và ban phúc cho mọi người được sức khỏe dồi dào, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đạt nhiều thành quả trong lao động của năm tiếp theo.

Khấn vái đủ ba lần, chủ lễ sẽ gọi các em nhỏ đến gần, ngồi (hoặc đứng) chắp tay, hướng về Mặt Trăng, rồi lấy cốm dẹp, cùng các thứ vật cúng khác mỗi thứ một ít đút vào miệng các em; còn tay kia thì vỗ nhẹ vào lưng hỏi các em muốn điều gì? Người Khmer tin rằng, những câu trả lời của các em nhỏ sẽ ứng với mọi sự tốt lành hay những điềm xấu sẽ diễn ra trong năm tới. Tuy nhiên, phần lớn các câu hỏi của người lớn thường chỉ tập trung vào nội dung nhằm giúp cho đứa trẻ nói lên ước vọng của mình trong tương lai (chẳng hạn những câu trả lời như: muốn học tập thật tốt, muốn có nhiều kiến thức, tiền bạc, của cải vật chất, muốn lớn lên sẽ trở thành bác sĩ, kỹ sư…). Sau đó mọi người quây quần lại dùng các thức cúng để hưởng phước, còn các em nhỏ thì vui chơi, múa hát, có khi kéo dài đến hết đêm.

Bước sang ngày 15/10, ngày mà người dân Khmer háo hức chờ đợi nhất, đó là hội đua ghe Ngo truyền thống với sự tham gia của nhiều đội đua đến từ khắp các tỉnh/thành khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

+ Hội đua ghe Ngo

Theo như phong tục, hội đua ghe ngo thường diễn ra theo thời gian làm ba bước như sau:

- Trước cuộc đua, người ta tổ chức tập đua ghe ngo từ thời gian 1 đến 2 tuần lễ, có phum, sóc vì muốn có thành tích nên tập cả tháng trời. Hằng ngày, các tay đua tập theo giờ rãnh rỗi và theo con nước, vì sông nước ròng (kém) không tập được. Thời gian tập được chọn chủ yếu là sáng sớm và chiều mát để các tay đua không bị mất sức. Tuy nhiên, người ta còn chọn những buổi trưa nắng để tập nhằm nâng cao sức chịu đựng khi vào đua chính thức bởi khi đua có lúc đua từ sáng đến chiều, đòi hỏi sự bền bĩ về thể lực của các tay đua. Vì thế, mỗi khi vào hội đua, ta thấy ở từng đoạn sông có chùa Khmer không khí hò reo, người ta ra bờ sông xem các tay đua của phum, sóc mình luyện tập rất đông đúc.

Để tham gia cuộc đua, sau khi ban tổ chức thông báo thể lệ và ngày, giờ, địa điểm đến từng phum, sóc, đơn vị nào tham gia thì đăng ký và thành lập một ban tổ chức điều hành, lựa chọn các tay đua và bắt đầu công việc tập đua tại địa bàn mình cư trú. Thường công việc này do những người lớn tuổi phối hợp với các sư sãi trong chùa thực hiện. Cũng có khi, người ta đi vận động tiền và các vật dụng khác để có kinh phí tham gia và đoạt giải trong cuộc đua nhằm thể hiện bộ mặt và sức mạnh của phum, sóc mình. Hầu hết bà con trong phum, sóc đều hết lòng vì cuộc đua nên kinh phí thường là rất đầy đủ, đảm bảo cho các tay đua tham gia cuộc đua một cách tốt nhất.

- Vào buổi sáng sớm trước ngày đua, các ghe ở gần và kể cả ở xa địa điểm đua bắt đầu làm lễ xuất quân. Địa điểm xuất quân thường diễn ra ở chùa, ở đoạn sông hay kênh nằm ở trung tâm của phum, sóc. Trong ngày này có đầy đủ chính quyền, sư sãi chùa, chức sắc, các trưởng lão và hầu hết bà con trong phum, sóc. Tại đây, người ta tiến hành bầu chọn người chỉ huy ghe ngo cho cuộc đua sắp tới.

Sau khi đã chuẩn bị xong mọi thứ thì bắt đầu lên đường về nơi tập kết để dự cuộc đua ghe. Thường, ghe được bơi biểu diễn một đoạn ngắn để tạo khí thế lấy đà. Sau đó, ghe này được một chiếc ghe máy có mã lực mạnh kéo; đi cùng là một chiếc ghe cà hâu (làm nhiệm vụ hậu cần) có cả nơi nghỉ ngơi cho cả đoàn đua, chở theo dàn trống, dàn nhạc ngũ âm quen thuộc. Như vậy, tính cả các tay đua và đoàn ghe hậu cần này, có trên dưới 100 người tham gia. Ngoài ra, cổ động viên muốn cổ động cho ghe đua của phum, sóc mình thì tự đi riêng. Không khí đặc biệt náo nhiệt khi đoàn ghe đua đi đến đâu là trống nhạc cổ vũ và tiếng hò reo vang dậy đến đó. Nói cả phum, sóc cùng tham gia vào cuộc đua là vậy.

Mỗi đội đua thường chọn cho mình một địa điểm thích hợp vừa thuận lợi cho việc cổ động, vừa thuận lợi cho việc hậu cần và điều hành dễ dàng. Ban tổ chức của đoàn đua tiến hành phân công từng nhóm làm nhiệm vụ lo thức ăn, nước uống…  Đối với đội đua thì kiếm địa điểm thuận lợi để tập dợt, bơi riêng và mời một vài đội khác cùng dợt để rút kinh nghiệm và dò sức đối thủ. Cuộc tập dợt này dài hay ngắn còn phụ thuộc vào thời gian cho phép và đặc biệt là ban tổ chức của mỗi đội vì họ có chiến thuật riêng. Thường họ hay nhắc đội đua của mình phải nghỉ dưỡng sức để tranh tài thắng lợi.

Việc bốc thăm đã xong từ trước, đến giờ đua tất cả các đội ghe tham gia đều tập trung tại khán đài để bốc thăm, nhận lịch đua. Việc bốc thăm thường diễn ra trước ngày đua vừa để tiện cho việc sắp xếp, vừa để các đội đua biết thêm thông tin về đối thủ của mình sắp tới. Sau đó, cuộc đua bắt đầu.

Người ta tổ chức đua ghe theo từng đợt một. Mỗi đợt đua là một cặp ghe theo bảng đã được bốc thăm từ trước. Vì thế, nhiều đội tham dự sẽ có nhiều bảng đấu xếp theo A, B, C…và cuộc đua diễn ra liên tục từ vòng loại đến chung kết. Về mặt thời gian, cuộc đua phải chịu sự chi phối của thời gian con nước lên, từ 1 giờ 30 đến 2 giờ 30 phút ngày 15 tháng 10 âm lịch. Nếu có đua buổi sáng thì bắt đầu phải từ 7 giờ 30 sáng.

Hiện nay, địa điểm diễn ra cuộc đua ghe ngo là thành phố Sóc Trăng. Người ta chọn một đoạn sông từ sông Maspero (trên đường Lý Thường Kiệt) đến sông Xung Đinh để tổ chức cuộc đua. Tất cả các ghe của các tỉnh như Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang, Cần Thơ,… đều về đây tham dự. Buổi chiều trước ngày đua là thời điểm các đội đua của tỉnh nhà Sóc Trăng và các tỉnh  bạn kéo về đây để chuẩn bị cho cuộc đua sắp tới. Người đông như trẩy hội, không kể thành phần người Khmer, người Kinh, người Hoa tất cả đều hào hứng tham gia lễ hội truyền thống này của người Khmer Nam bộ. Hiện nay, đua ghe ngo đã trở thành Festival Đua ghe ngo của tỉnh Sóc Trăng. Tại địa điểm đua, người ta xây dựng thành hai khán đài dài (A, B) và lớn sức chứa lên đến vài nghìn người và rất dễ quan sát cuộc đua. Đặc biệt, người Khmer rất hăm hở chờ đợi được chứng kiến đội đua của mình để cổ vũ động viên và sẽ rất tự hào nếu ghe mình có giải cao.

Vào cuộc đua, từng đợt ghe một có thể là một đôi ghe hoặc ba ghe cùng tiến về phía trước ào ào lướt sóng. Tiếng hò reo, cổ vũ, tiếng trống, tiếng kèn, dàn nhạc ngũ âm vang lên làm cho các tay đua không biết mệt mỏi. Không khí cuộc đua vì vậy mà dù có gió, mưa cũng vẫn cứ tiến hành. Hai bên bờ sông người đông nghẹt với những dải lụa đủ màu sắc cổ vũ cho cả đoàn đua, không phân biệt bên nào của đội nào, người có sức vóc thì lội cả xuống mé sông để nhìn đoàn đua cho gần.

Sau khi loại từng đối thủ, để vào chung kết, đội đua cần phải có các tay đua không chỉ mạnh mà còn bền, kèm theo người chỉ huy giỏi và công việc hậu cần tốt. Kết thúc cuộc đua, ghe chiến thắng được trao giải trước tiếng vỗ tay của rừng người. Đặc biệt, họ không quan trọng quá phần thưởng và đội nào thắng cuộc mà tất cả đều vui vẻ, hẹn gặp lại cuộc đua năm sau.

Sau cuộc đua, tất cả các đội chia nhau ra về cùng ghe máy hộ tống cổ vũ. Những ghe đi chung đoạn đường sông thì cùng kết thành một đội, cùng vui liên hoan, ca múa trên chiếc ghe cà hâu (ghe hậu cần). Đoàn người cổ vũ tan dần và phải có hơn hàng giờ đồng hồ họ mới rời khỏi được địa điểm đua. Sau khi cổ vũ cuộc đua, họ bắt tay vào cúng trăng và tiến hành lễ đút cốm dẹp truyền thống.

4. Các sản phẩm tinh thần được tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển của lễ hội đua ghe Ngo

+ Thả đèn gió: trước đây, trong thời gian nghi lễ Oc om bóc diễn ra, có tục thả đèn gió bay lên trời giữa tiếng trống, tiếng nhạc ngũ âm và cất tiếng hát ca reo mừng. Đèn gió được làm bằng giấy mỏng, hình ống, đáy hình vuông được cố định bằng khung tròn làm bằng tre hoặc trúc vót mỏng. Người Khmer cho rằng ngọn đèn gió bay lên trời mang theo ngọn lửa tượng trưng cho những xui xẻo, tà ma mà họ tống tiễn để mang đến những điều may mắn và tốt đẹp. Đèn càng lên cao, bay càng xa đồng nghĩa với may mắn, tài lộc sẽ càng được nhiều.

+ Thả đèn nước: là một trong những hoạt động không thể thiếu trong lễ hội Oc om bóc - Đua ghe Ngo. Chiếc đèn có cấu tạo như một ngôi đền, thường được làm bằng thân và bẹ chuối, có trang trí hoa văn và gắn hệ thống đèn nhiều màu sặc sỡ. Đầu đèn có treo cờ phướn, chung quanh người ta cắm đèn cầy và nhang, bên trong có bày các thức cúng. Mở đầu buổi lễ thả đèn nước, sư sãi và đồng bào thắp nến và nhang xung quanh đèn rồi tụng kinh để tưởng nhớ đến Đức Phật và xin lỗi Đất và Nước vì đã làm dơ bẩn, ô uế nguồn nước và đào xới đất. Theo truyền thuyết đèn nước tượng trưng cho dấu chân còn lưu lại của Đức Phật bên bờ hồ Namătea để độ chúng sinh hoặc còn để tưởng nhớ một cái răng của Phật được vua loài rắn Neaka Reach cất giữ…

Trong lễ cúng trăng, ngoài đua ghe Ngo là phần hội chính, là điểm nhấn không thể thiếu... thì còn một số hoạt động khác như: cờ ốc, bi sắt, múa Rom Vong, Rong Leo... thu hút đông đảo không chỉ người dân Khmer mà còn có người Kinh, Hoa cùng tham dự. 

 

Bài viết liên quan
Nguồn gốc lễ hội đua ghe ngo
(21/11/2023)
Lượt xem 51
@Lễ hội Oóc Om Bóc - Đua ghe Ngo tỉnh Sóc Trăng 2023 Ghi rõ nguồn khi lấy lại thông tin từ website này